1. Bài tham khảo số 1
Trong bối cảnh nạn đói 1945, chàng trai xấu xí Tràng phải làm nghề kéo xe thóc để sống qua ngày. Một cơ hội, qua bông đùa và bánh đúc, anh gặp cô thị đanh đá, họ trở thành vợ chồng ngay lập tức. Cuộc sống với nàng dâu mới thay đổi căn nhà, từ sự bừa bộn thành sạch sẽ. Bữa ăn đầu tiên đầy nghẹn ngào là rau chuối và cám lợn. Câu chuyện người đi phá kho thóc mang lại hy vọng mới, mở ra hình ảnh lá cờ Đảng trong tâm trí Tràng về một tương lai tốt đẹp.
Bạn đang xem: Top 14 Bài tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) (Ngữ văn 12) ưu việt nhất
Bài tham khảo số 1Bài tham khảo số 1
2. Bài tham khảo số 3
Tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân, xuất hiện trong tập Con Chó Xấu Xí, là một truyện ngắn nổi bật. Ban đầu, tác phẩm có tựa đề Xóm Ngụ Cư và được viết ngay sau Cách Mạng Tháng Tám. Bản thảo sau đó đã được chỉnh sửa.
Trong không khí nơi chợ, trẻ con buồn bã, người lớn mệt mỏi. Tràng đưa người phụ nữ xa lạ về nhà. Tiếng gào của trẻ con và sự chú ý của người lớn tạo nên không khí sôi động. Khi về nhà trống trải, Tràng lẩn tránh và bước vào. Người phụ nữ không ngờ bị cuốn theo Tràng. Hai lần gặp nhau, với bốn bát bánh đúc, người phụ nữ thể hiện sự ‘chặc lưỡi’ của mình, khiến Tràng ngạc nhiên. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, về nhà muộn, gặp cảnh này, bà càng bất ngờ. Tràng giải thích, bà cụ Tứ không biết nên vui hay buồn. Trò chuyện với con dâu, bà khóc, và Tràng thắp đèn. Mùi rơm và tiếng hờ khóc từ những ngôi nhà lân cận vẫn còn vang vọng.
Buổi sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy. Tất cả đã thay đổi, nhà sạch sẽ và gọn gàng. Tràng cảm thấy trách nhiệm với vợ và yêu thương ngôi nhà hơn. Bữa ăn đơn giản chỉ là rau chuối chấm muối, cùng với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ, vui mừng, nấu nồi cháo cám và gọi là ‘chè khoán’. Tiếng trống thúc đẩy từ ngoài đình vang lên. Bà cụ Tứ lại khóc, và trong tâm trí Tràng hiện lên lá cờ đỏ cùng đoàn người trên đê Sộp, đi phá kho thóc.
Bài tham khảo số 3Bài tham khảo số 3
3. Bài tham khảo số 2
Thời điểm 1945, Thái Bình và Nam Định là những nơi chịu đựng đói kém nhất. Người chết nằm ven đường như rơi xuống như lá, không một buổi nào đi chợ hay làm đồng mà không bắt gặp vài xác chết nằm co bóp bên đường. Không khí ngột ngạt từ mùi thối rải ra. Tràng, chàng trai kỳ quặc và ngu ngốc, dắt về một người phụ nữ xa lạ. Đám trẻ thường vui đùa với Tràng, nhưng hôm nay họ không dám đến vì Tràng trông lạ lùng và khác thường quá. Vợ của Tràng là Thị, họ trở thành vợ chồng với nhau thông qua vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc.
Mẹ của Tràng cảm thấy bối rối khi con mang về một cô gái và nói là vợ. Bà chấp nhận, nhưng trong lòng lo lắng và bối rồi. Buổi sáng hôm sau, nhà Tràng trông thật kỳ quặc. Gọn gàng và sạch sẽ hơn rất nhiều. Cả gia đình ngồi ăn sáng với nồi cháo lõng bõng, nhưng không khí trong nhà rất vui vẻ. Khi nồi cháo hết nước, dù mẹ Thị nhanh chóng mang nồi chè khoáng ra, nhưng đó chỉ là chè từ cám.
Từ đó, không ai nói chuyện với ai, vì mọi người đều hiểu rằng đầu lưỡi chát là sự thật và nó đã đưa họ đến với thực tế. Họ không có thực phẩm. Tiếng trống thuế vang lên, Thị thắc mắc tại sao làng này vẫn phải đóng thuế, trong khi làng của Thị đã phá kho thóc của Nhật để chia cho dân.
Bài tham khảo số 2Bài tham khảo số 2
4. Bài tham khảo số 5
Năm 1945, đại đói cướp đi sinh linh, nỗi đau tràn ngập khắp nơi, người chết nằm như bóng ma, người sống dật dờ nhưng không bừng tỉnh. Tràng, chàng trai xấu xí, sống ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê, cùng mẹ già. Một lần kéo xe thóc, Tràng gặp cô gái đói rách, về sau cô trở thành vợ Tràng. Sự xuất hiện của vợ mới khiến cả xóm người ngạc nhiên, đặc biệt là bà Cụ Tứ – mẹ Tràng, ban đầu bàng hoàng và lo lắng nhưng sau cũng chấp nhận. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, họ chia sẻ bữa cháo và nồi cháo cám cho nàng dâu, thể hiện lòng độ lượng và bao dung. Câu chuyện kết thúc khi tiếng trống thuế vang lên, Thị nói về Việt Minh phá kho thóc Nhật, và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng lại hiện về trong ký ức của Tràng.
Bài tham khảo số 5Bài tham khảo số 5
5. Bài tham khảo số 4
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân, nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Tác phẩm này, viết sau cuộc Cách mạng tháng Tám, như một bản cáo trạng tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít, đồng thời khắc họa cuộc sống thê thảm của nhân dân trong đợt nạn đói năm 1945. Tình cảm nhân văn sâu sắc được thể hiện khi những người nông dân vượt qua khó khăn, đói khổ, tay trong tay yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Xem thêm : Cảnh báo cho game thủ khi nhập mã Đại Lộ Danh Vọng trong Free Fire
Truyện kể về năm 1945, thời kỳ nạn đói khủng khiếp, người chết không chỗ chôn, người sống gầy rộc như bóng ma. Tràng, chàng trai xấu xí, sống ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò kiếm sống nuôi mẹ già – bà cụ Tứ.
Trong một lần kéo xe thóc cho Liên đoàn, Tràng quen biết một cô gái. Vài ngày sau, gặp lại, Tràng không nhận ra cô gái trước đây, vẻ tiều tuỵ và hốc hác. Mời cô ăn bánh đúc, câu nói nửa đùa nửa thật, cô gái này trở thành vợ Tràng. Khi Tràng đưa người về, xóm ngụ cư ngạc nhiên, khuôn mặt u tối rạng rỡ lên.
Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, về muộn, ngạc nhiên khi thấy con dâu mới. Bà cụ cảm thấy nhiều cảm xúc khác nhau nhưng cuối cùng là vui và hy vọng. Bữa tân hôn diễn ra trong không khí thê lương, tiếng khóc vang lên từ những ngôi nhà trong xóm.
Sáng hôm sau, Tràng thức dậy muộn, thấy mọi thứ gọn gàng sạch sẽ từ trong nhà đến ngoài sân. Anh cảm thấy có trách nhiệm với vợ và gia đình hơn. Trong bữa cơm với rau chuối, cháo lỏng, và chè cám, mọi người hòa mình trong không khí vui tươi. Bà cụ kể chuyện vui vẻ, vợ Tràng kể về Việt Minh. Tiếng trống thúc thuế vang lên, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc. Người dân nghèo đặt niềm tin vào tương lai từ con đường cách mạng.
Bài tham khảo số 4Bài tham khảo số 4
7. Bài tham khảo số 8
Trong bối cảnh nạn đói năm 1945, xóm ngụ cư xơ xác, Tràng – người nông dân nghèo, thô kệch, dở hơi – dẫn một phụ nữ về nhà. Gặp vài lần, cô ưng thuận theo Tràng về sau những lời đùa và bữa ăn bánh đúc. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) chào đón người con dâu với tâm trạng lẫn lộn. Đêm tân hôn diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới.
Sáng hôm sau, buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới chăm chỉ dọn dẹp, quét tước. Tràng cảm thấy gắn bó và trách nhiệm với gia đình. Người vợ trở nên hiền hậu, không còn vẻ chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp. Bữa cơm với cháo loãng và chè cám, bà cụ Tứ hồ hởi đãi con dâu và con trai. Lời kể về Việt Minh khiến Tràng nhớ đến đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc, lá cờ đỏ bay phất phới.
Bài tham khảo số 8Bài tham khảo số 8
8. Bài tham khảo số 7
Kể về Tràng, một chàng trai trong thời đại loạn lạc, nạn đói 1945 làm hàng triệu người chết. Trong hoàn cảnh khốn khó, Tràng, mặc dù xấu trai, thô kệch, nhưng lại cưới được vợ. Tin này khiến xóm người ngạc nhiên, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Bữa cơm mừng, bà cụ chia sẻ niềm vui và hy vọng vào tương lai hạnh phúc của con dâu mới bằng một nồi chè do chính tay nấu. Nhưng tiếng trống thúc thuế làm hiện về hình ảnh lá cờ Việt Nam, người dân cùng nhau cướp kho thóc giặc, khát vọng một tương lai tươi sáng.
Bài tham khảo số 9Bài tham khảo số 9
9. Bài tham khảo số 8
“Vợ nhặt” là tác phẩm đặc sắc của Kim Lân, xuất bản vào năm 1962. Nguồn cảm hứng của tác phẩm này xuất phát từ tình tiền bối là “xóm ngụ cư”. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, bản thảo của tác phẩm bị mất, nhưng năm 1954, Kim Lân tái sáng tác dựa trên cốt truyện cũ để viết nên tác phẩm ngắn này.
Đói đến từng ngóc ngách xóm ngụ cư, trẻ thơ ủ rũ, người lớn lặng lẽ như bóng ma. Lúc đó, Tràng dẫn một người phụ nữ về nhà. Tiếng hò re của trẻ con vang lên ‘Chồng vợ hài’. Mọi người lớn đều ngạc nhiên, bàn tán, những khuôn mặt u tối bỗng trở nên rạng ngời. Khi về đến nhà, một ngôi nhà teo tóp, xiêu vẹo, Tràng đợi bà cụ Tứ với tâm trạng nóng ruột; người phụ nữ xa lạ ngồi mép giường cũ cũng đầy lo lắng. Tràng chờ đợi, đêm buông xuống, cụ Tứ về và ngạc nhiên khi thấy có một người phụ nữ lạ trong nhà chào mình bằng u. Sau khi Tràng giải thích, bà cụ nín lặng, lòng xáo trộn, xót xa, buồn bã xen lẫn niềm vui, rồi mở rộng trái tim đón thị, nhận làm con dâu. Đêm hạnh phúc của vợ chồng Tràng diễn ra trong cảnh chết chóc, tan tác và thê lương. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy và nhận ra sự thay đổi trong ngôi nhà, đống quần áo rách được phơi, đống rác ở đầu ngõ đã được dọn sạch. Cảnh đẹp đó khiến Tràng thấm thía, đầy cảm giác phấn chấn và trách nhiệm bổn phận với gia đình. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới là một lùm rau chuối thái rối, muối trắng, bát cháo lõng bõng và nồi chè khoán. Trong bữa cơm, cụ Tứ kể những chuyện vui và khi nghe tiếng thúc thuế, bà cụ lại khóc, trong khi Tràng ôm trong tâm hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phía trước đê đi phá kho thóc của Nhật.
Bài tham khảo số 10Bài tham khảo số 11
10. Bài tham khảo số 12
Tràng, người đàn ông nghèo cùng xóm ngụ cư, một ngày buổi chiều, không khí thê thảm, đen tối vì đói. Anh dẫn về một người phụ nữ, vợ anh, người anh đánh giá cao. Tràng nhìn thấy vợ tương lai đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc, lời đùa vui.
Bà mẹ già của Tràng đón nhận người phụ nữ khốn khổ đó làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng thấy con người mình thay đổi. Từ chút đùa đến thoáng lo, Tràng trở thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán. Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng và vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong tâm trí anh hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phất phới.
Xem thêm : Hải Bánh là ai? Tiểu sử và những sự thật về ông trùm giang hồ vừa ra tù
Bài tham khảo số 13Bài tham khảo số 14
11. Bài tham khảo số 15
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, nằm trong tập Con chó xấu xí, kể về số phận của Tràng, một chàng trai trong thời kỳ nạn đói 1945. Mặc dù xấu trai, thô kệch, nhưng Tràng lại có vợ nhờ vào sự nhân văn của mình. Khi tin Tràng cưới vợ lan truyền, xóm ngụ cư đều ngạc nhiên, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, vừa vui vẻ vừa lo lắng. Bữa ăn mừng với nồi chè khoán của bà cụ Tứ chứa đựng hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong cuộc sống đầy khó khăn, đám người cướp kho thóc để chia cho dân nghèo làm Tràng nhớ đến lá cờ Việt Nam đỏ bay phất phới, nơi tinh thần đoàn kết bùng cháy trong con người Việt.
Bài tham khảo số 17Bài tham khảo số 17
12. Bài tham khảo số 18
Trong cơn nạn đói khủng khiếp năm 1945, những bóng ma chết chóc bao phủ khắp nơi. Anh chàng Tràng, hình ảnh ‘xấu xí thô kệch’, độc thân và sống giữa xóm ngụ cư. Tràng gặp thị, một người phụ nữ đỏng đảnh, kém duyên. Tràng, với lòng thương người, đã mời thị ăn bánh đúc. Thị trở thành vợ Tràng, gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng.
Bà cụ Tứ ngạc nhiên nhưng thấu hiểu và thương người con gái ấy. Thị, trở thành người chăm sóc gia đình, không còn đỏng đảnh. Tràng cũng thay đổi, lo lắng về tương lai. Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ hạnh phúc ăn nồi cháo cám, đùa rằng đó là chè khoán. Trong cuộc trò chuyện, Thị nhắc đến Việt Minh phá kho thóc Nhật, trong tâm Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
Bài tham khảo số 19Bài tham khảo số 19
13. Bài tham khảo số 14
Những năm 1945, nạn đói đen tối hoành hành, nhân dân sống vật vờ và chết đói. Trong tình cảnh khốn khó, Tràng, một chàng trai xấu xí, lại có vợ. Họ gặp nhau giữa cảnh đau khổ chung.
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu với lòng vừa mừng, vừa lo. Không rẻ rúng, người phụ nữ đã theo con trở về. Bà cầu chúc hạnh phúc cho đôi trẻ mới cưới.
Ngày tiếp theo, bà cụ Tứ và cô dâu cùng nhau dọn dẹp nhà cửa. Tràng nhận ra trách nhiệm của mình đối với gia đình và vợ mới. Bữa ăn đơn sơ nhưng ấm cúng được bà cụ Tứ chuẩn bị làm cho không khí trở nên vui tươi. Tiếng trống vang lên, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người dân đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật để chia sẻ với nhau, và lá cờ đỏ bay phất phới trong gió.
Bài tham khảo số 14Bài tham khảo số 13
14. Bài tham khảo số 15
Câu chuyện trong tác phẩm Vợ nhặt diễn ra vào năm 1945, thời kỳ nạn đói đen tối, khi hàng triệu người chết đói. Trong bối cảnh khốn khó, chàng trai xấu xí, Tràng, lại có được vợ – người vợ nhặt. Tin đồn này khiến cả xóm ngạc nhiên và lo lắng, đặc biệt là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Bà vừa mừng vừa lo, nỗi lo cơ bản về miệng ăn trong hoàn cảnh khan hiếm thức ăn.
Ngày tiếp theo, nhờ vợ mới, nhà cửa trở nên gọn gàng. Bữa cơm gia đình trở nên ấm cúng hơn với sự hiện diện của nàng dâu mới. Bà cụ Tứ trò chuyện vui vẻ, truyền đạt hy vọng vào tương lai hạnh phúc của đôi vợ chồng. Nồi chè khoán, do bà Tứ tự tay nấu, tuy chua nhưng ấm áp, thể hiện tình thương mẹ dành cho con. Trong bữa ăn hạnh phúc, tiếng trống thúc thuế vang lên, và trong tâm trí Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới, cùng với những người đồng bào đi phá kho thóc để chia sẻ với nhau.
Bài tham khảo số 12Bài tham khảo số 12
15. Bài tham khảo số 16
Nước ta vào năm 1945, đang chìm trong đại nạn đói, mất mát hàng triệu sinh linh. Cuộc sống trở nên khốc liệt, người dân đấu tranh để kiếm miếng ăn. Ở một góc nhỏ của xóm, anh Tràng, với ngoại hình xấu xí, hằn sâu bởi cảnh đời cơ cực, mỗi ngày phải kéo xe bò để kiếm sống. Dù tuổi đã cao, ước mơ về hạnh phúc gia đình vẫn hiển hiện trong tâm trí anh. Một ngày, trong lúc kéo xe, Tràng gặp một cô gái đang đói khát, và hai tâm hồn nhanh chóng hiểu và chia sẻ. Tràng quyết định dẫn cô gái này về nhà làm vợ.
Quyết định của Tràng khiến cả xóm ngỡ ngàng và lo lắng. Mọi người không chỉ ngạc nhiên vì Tràng lại cưới vợ mà còn lo sợ cho gia đình anh, bởi họ đều biết rằng cuộc sống đang khó khăn, và thêm một miệng ăn sẽ là thách thức. Bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, trải qua cảm xúc phức tạp, vừa mừng vui vì con có vợ, vừa lo lắng vì gia đình đang gặp khó khăn. Bữa ăn đầu tiên chỉ là nồi cháo cám, nhưng bà cụ gọi đó là chè. Cô dâu mới hiểu lòng của mẹ chồng và cùng bà dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Tràng nhận ra trách nhiệm mới và cam kết hơn với gia đình. Từ xa, tiếng trống vang lên, và hình ảnh người dân phá kho thóc, lá cờ đỏ bay trong gió mang lại niềm hy vọng về tương lai.
Bài tham khảo số 14Bài tham khảo số 14
Nguồn: https://timhieulichsuquancaugiay.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)