Blog

Top 10 Bài văn phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh xuất sắc nhất

1
Top 10 Bài văn phân tích bài thơ 'Sang thu' của Hữu Thỉnh xuất sắc nhất

1. Bài văn phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh số 1

Mùa thu, như một tác phẩm nghệ thuật, đánh thức cảm xúc và sự quan sát tinh tế của những tâm hồn nhạy cảm. Hữu Thỉnh, với bức tranh thơ ‘Sang thu’, không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của mùa thu mà còn chạm đến những cảm nhận độc đáo về hương ổi, màn sương, dòng sông, đám mây và nắng cuối hạ. Những chi tiết giản dị nhưng sâu sắc này làm cho bức tranh mùa thu trở nên sinh động và đặc sắc.

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

3. Phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh – Bước chân vào vẻ đẹp thơ mộng

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.

Bỗng nhận ra hương ổi

……..

Trên hàng cây đứng tuổi.

Từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Những biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và thể hiện qua những hình ảnh thơ mộng, giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, dấu hiệu của mùa thu không phải là: “Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không phải là “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống; lệ ngàn hàng” như trong thơ Xuân Diệu cách đây hai phần ba thế kỉ.

Vốn hiểu biết nhiều về nông thôn nên Hữu Thỉnh đã đưa vào bài thơ những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà vô cùng quen thuộc của quê hương:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Đây là khung cảnh một sáng chớm thu ở làng quê Bắc Bộ. Trước hết nhà thơ bất chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió mang hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.

Tiếp theo là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ. Lập thu, tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Sương cũng là một trong những dấu hiệu của mùa thu. Sương chùng chình qua ngõ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Nhà thơ ngỡ ngàng và sung sướng thầm thốt lên: Hình như thu đã về.

Hai từ bỗng và hình như làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu – nguồn cảm hứng bất tận của thơ, ca, nhạc, họa. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se.

Tiếp theo là thị giác mở rộng để tiếp nhận những tín hiệu báo thu sang. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, lũy tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác giao mùa được nhà thơ diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào hồn từ lúc nào chẳng rõ. Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống.

Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay những nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Hình minh họa (Nguồn internet)Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Phân Tích Bài Thơ ‘Sang Thu’ của Hữu Thỉnh – Phần 2

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

“Sang thu” là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được.

Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa. Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về những điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất.

Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi. Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời bắt đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả.

Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

Từ “vắt” dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có nhưng chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến “hàng cây đứng tuổi”.

Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta “đứng tuổi” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lên đời người ở tuổi xế chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa.

Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ “Sang thu” độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.

Hình ảnh đẹp (Nguồn: Internet)Nguồn: Ảnh minh họa trên Internet

Phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh số 5

Vào cuối năm 1977, khi kết thúc chiến tranh và hòa bình trở lại, vào một buổi chiều thu tĩnh lặng, tôi đi ra ngoại ô Hà Nội, thăm một vườn ổi chín mướt. Hương thơm dịu dàng làm tôi ngẩn ngơ, xao xuyến, và tại đây, cảnh đẹp đã truyền cảm hứng cho bài thơ ‘Sang Thu’. Hãy tưởng tượng bạn đang đứng giữa vườn ổi, hòa mình vào vị thơ tuyệt vời của tôi.

Bài thơ được sáng tác theo thể thơ 5 chữ, súc tích và cô đọng. Toàn bộ bài thơ mang đến âm nhạc nhẹ nhàng, đôi khi là sự trầm lắng và suy tư. Đây là cảm nhận tinh tế về thiên nhiên khi mùa thu đến, tạo nên một bức tranh giao mùa tuyệt vời. Ngay từ đầu, bạn có thể cảm nhận được sự tinh tế của tôi khi mô tả không khí thu:

‘Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se’.

Từ ‘bỗng’ thể hiện sự đột ngột, bất ngờ trong cảm nhận. Tôi chợt nhận ra điều gì? ‘Hương ổi phả vào trong gió se’. Tại sao là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Đây là cảm nhận tinh tế của tôi về hương vị chua chua, ngọt ngào của những quả ổi chín vàng. Một hương vị đơn giản, mộc mạc, quen thuộc với quê hương. Ít người nhận ra sự hấp dẫn của nó. Tôi đã sử dụng các giác quan và tâm trạng để chợt nhận ra những dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu đang đến. Bạn sẽ cảm nhận được sự bất ngờ của tôi trong câu ‘Bỗng nhận ra’ này.

Đứng giữa vườn ổi và trước bức tranh của tiết trời cuối hạ đầu thu, tôi nhận ra hương vị tinh tế của quê hương:

‘Dùng dằng hoa quan họ

Nở tím bên sông Thương

Nắng thu đang trải đẩy

Đã trăng non múi bưởi

Bến cần con nghé đực

Cả chiều thu sang sông?

(Chiều sông Thương)

Mùa thu với hình ảnh dân dụ, đậm chất quê hương, nhưng vẫn chứa đựng triết lý.

‘Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi’.

Mưa giảm dần, sấm mùa hạ ít hơn khi chuyển sang thu, cây không còn phải giật mình đột ngột. Đây là quy luật tự nhiên. Hai câu thơ này không chỉ miêu tả sự thay đổi của thời tiết mà còn mang ý nghĩa hàm ngôn: ‘Sấm’ là âm thanh động đột, ngoại cảnh, cuộc sống. ‘Hàng cây đứng tuổi’ là những con người có trải nghiệm, vững vàng trước sự tác động của cuộc sống.

Khi sáng tác ‘Sang Thu’, tôi và nhân dân đã trải qua những năm tháng chiến tranh khó khăn. Cuộc chiến tranh đó như một mùa hạ nặng nề. Sống trong hòa bình, trong một chiều thu yên bình ở làng quê, tôi cảm nhận sự thanh thản trong tâm hồn như ‘sông được lúc dềnh dàng’. Tôi ‘bình tĩnh chấp nhận đương đầu, không trở ngại nào đánh gục được’.

Cuối cùng, mùa thu đã được mô tả thông qua những biểu hiện của thiên nhiên:

‘Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu’.

Liên tưởng này đầy sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt, tạo nên cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong vắt, xanh ngắt. ‘Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt’ (Nguyễn Khuyến). Đây chỉ là liên tưởng, nhưng hình ảnh của mây mùa hạ nối với mùa thu bằng nửa đám mây lững lờ, dềnh dàng, chùng chình trên bầu trời làm cho không gian và thời gian chuyển mùa trở nên đẹp đẽ. Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài thơ và là biểu tượng của tiết trời sang thu. Tôi cảm nhận sự thay đổi nhẹ nhàng của thời tiết khi hạ chuyển sang thu:

‘Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa’.

Tôi mô tả sự thay đổi của nắng, với tia nắng trở nên mềm mại hơn và cơn mưa giảm dần. Đây là những cảm nhận và trải nghiệm về con người và cuộc sống. Bài thơ này là một hành trình thơ về mùa thu dân tộc, đem đến cho bạn cảm nhận về tình quê hương Việt Nam qua vẻ đẹp của mùa thu.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)Ảnh minh họa (Nguồn internet)

5. Phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh

‘Sang thu’ là một bức tranh thơ tuyệt vời của Hữu Thỉnh, vẽ nên vẻ đẹp êm đềm của mùa thu. Bài thơ không chỉ là những dòng lảng khoảng về cảnh đẹp tự nhiên mà còn là hồi ức về hương ổi thơm nồng từ vườn quê, những đám mây mùa hạ trôi nhẹ, và những đàn chim bay vội vã chuyển mùa.

Hữu Thỉnh tận dụng ngôn từ một cách tinh tế, khiến cho từng chi tiết trong bài thơ trở nên sống động và gần gũi. Hương ổi, với vị ngọt lừng, được mô tả như là một hơi thở trong gió thu se lạnh, đọng lại trong tâm hồn mỗi người như một ký ức tuổi thơ.

Bức tranh thu được mở rộng với hình ảnh sông mùa thu, nhẹ nhàng trôi qua nhưng mang theo những đổi thay của thời gian. Nhà thơ tài năng không chỉ kể về cảnh vật tự nhiên mà còn dùng nó như một phương tiện để diễn đạt về cuộc sống, về những biến động, khó khăn, và sự vươn lên.

‘Sấm cũng bớt bất ngờ, trên hàng cây đứng tuổi’ – những từ ngữ này không chỉ là những chi tiết về thời tiết mà còn là biểu hiện của sức mạnh, bản lĩnh của nhân dân. Hữu Thỉnh chọn lọc từ ngữ một cách khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc và đầy cảm xúc.

Bài thơ ‘Sang thu’ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật về thiên nhiên mà còn là một tác phẩm về con người, về quê hương. Hữu Thỉnh đã làm cho mùa thu trở nên gần gũi, đẹp đẽ hơn trong tâm trí người đọc, và để lại dấu ấn của mình trong lòng độc giả.

‘Sang thu’ – một tình khúc thu diệu kỳ của thi sĩ, là một mảnh ghép quý giá trong bức tranh thơ văn của nền văn hóa Việt Nam.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)Hình minh họa (Nguồn: Internet)

6. Bài văn phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh số 7

Hữu Thỉnh thuộc thế hệ nhà thơ lớn lên trong kháng chiến chống Mỹ, tác phẩm thơ của ông thường chứa đựng cảm xúc sâu sắc, chân thành và phong phú về suy tư, triết lý. Bài thơ ‘Sang thu’ cũng không nằm ngoại lệ. Nó không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời, mà còn là biểu tượng của cuộc đời con người khi bước qua mùa thu.

Tính suy tư, triết lí hiện hữu ngay từ tên bài thơ, ‘Sang thu’, không chỉ là thời điểm chuyển giao giữa hè và thu, mà còn ám chỉ sự chín muồi, vững vàng của con người trước những thách thức của cuộc sống.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Điều đầu tiên tác giả cảm nhận là hương ổi, một mùi thơm giản dị, đậm đà của quê hương. Hương ổi tự nhiên ‘phả vào trong gió se’, tạo nên không khí thơm tho, quyến rũ, hòa mình vào gió se đầu thu. Sau cảm nhận về âm thanh, tác giả tiếp tục mô tả mùa thu bằng thị giác, với những hạt sương chùng chình qua ngõ.

Nghệ thuật nhân hóa và từ ‘chùng chình’ tạo ra hình ảnh sống động của những hạt sương, nhỏ bé, xen kẽ tạo nên màn sương mỏng nhẹ. Cảm nhận này như mở ra trước mắt độc giả hình ảnh của những giọt sương nhỏ, nhẹ nhàng, di chuyển trước cửa chào đón mùa thu, như đang lưu luyến, bịn rịn với mùa hè.

Trong khoảnh khắc giao mùa, tâm hồn nhà thơ như lạc vào không gian tràn ngập mùa thu tuyệt vời. Đó là cảm giác bất ngờ khi bắt gặp dấu hiệu thu ‘bỗng’ – sự ngạc nhiên, niềm vui, một chút xúc động trước những khoảnh khắc thu thật thu, con người thoát khỏi cuộc sống hối hả để đắm chìm trong thiên nhiên.

Sang đến khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu trở nên rõ ràng, sắc nét hơn. Từ không gian ngõ vườn nhỏ, Hữu Thỉnh mở rộng ngòi bút đến bầu trời, dòng sông. Dòng sông nhẹ nhàng, thong thả, không còn cuồn cuộn đỏ ngầu như những ngày nước lũ mùa hè.

Đối lập với hình ảnh dòng sông là hình ảnh những con chim vội vã. Gió se lạnh đã đến, khiến những loài chim phải vội vã bay về phương nam tránh rét. Từ cách sử dụng từ ngữ, như ‘bắt đầu’, chỉ mới bắt đầu chứ chưa chắc đã vội vã vì mùa thu chỉ mới chớm sang. Mọi sự vật đều di chuyển một cách thong thả, nhẹ nhàng, chỉ những tâm hồn tinh tế mới cảm nhận được điều này.

Hai câu thơ tiếp theo là điểm nhấn, tạo nên sự độc đáo cho bức tranh mùa thu: ‘Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu’. Điều này là một khám phá tưởng tượng, độc đáo, gợi lên hình ảnh của một đám mây mỏng nhẹ, uyển chuyển bước chân sang mùa thu. Tác giả cũng truyền đạt tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của đám mây: nửa lưu luyến mùa hạ, nửa háo hức nghiêng mình sang thu.

Ở đoạn này, tác giả thể hiện sự tài năng khi sử dụng hình ảnh quen thuộc của đám mây để kích thích trí tưởng tượng về không gian, ranh giới chuyển mùa. Sự sáng tạo này không chỉ là cảm nhận bằng thị giác mà còn thông qua tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu thiên nhiên sâu sắc của nhà thơ.

Bức tranh mùa thu dường như hoàn thiện hơn qua hai câu thơ tiếp theo: ‘Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa’. Mùa thu hiện ra rõ hơn qua sự biến đổi của các hiện tượng thiên nhiên: mưa, sấm – những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ, giờ cũng ‘vơi dần’, ‘giảm bất ngờ’, mùa thu ngày càng hiện hữu hơn. Sau những cảm nhận này, là những suy nghĩ sâu sắc của tác giả về cuộc sống, con người:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Câu thơ đầu tiên miêu tả rằng mùa thu, cơn mưa lớn kèm theo tiếng sấm đã ‘vơi dần’, giảm dần, và các hàng cây đã trải qua mùa hè giông bão không còn giật mình bởi tiếng sấm của mùa hạ. Tuy nhiên, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: ‘sấm’ là biểu tượng của những biến động, những sự kiện mà con người trải qua trong cuộc đời; ‘hàng cây đứng tuổi’ là biểu tượng của những con người trưởng thành đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm.

Từ ý nghĩa đó, nhà thơ truyền đạt suy nghĩ, trải nghiệm của mình: khi con người trải qua những cuộc sống giông bão, họ sẽ trở nên bình tĩnh hơn trước những bất thường, những ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Câu thơ chứa đựng nhiều suy nghĩ, trải nghiệm của tác giả về cuộc sống, về con người.

Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ năm chữ với sự tài năng, giàu nhịp điệu. Bài thơ có nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, sâu lắng, chính như bước đi chậm rãi của thời gian trong khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu. Ngôn từ giản dị, nhưng giàu ý nghĩa, tạo hình tốt: phả, vắt, chùng chình, dềnh dàng, vội vã,… diễn đạt tinh tế những dấu hiệu của mùa thu. Ngoài ra, ông cũng sử dụng những ý tưởng độc đáo, sáng tạo làm cho thơ trở nên sống động, hấp dẫn hơn. Hình ảnh trong thơ được chọn lọc, đặc sắc, mang đặc điểm của thời tiết giao mùa: hạ – thu.

Tác phẩm đã mang lại cho thơ ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh mùa thu đặc sắc, ý nghĩa. Qua bài thơ, chúng ta cũng thấy được cảm nhận tinh tế của tác giả về khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu, với sự giao thoa của nhiều tầng ý nghĩa: đất trời khi sang thu, cuộc sống trong mùa thu và cuộc sống con người khi sang thu.

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)Minh họa (Nguồn: Internet)

Phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh – Bài 7

Trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có lẽ mùa thu là nguồn cảm hứng cho thi ca và nhạc họa nhiều nhất. Bạn có thể bắt gặp những tác phẩm như chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, ‘Tiếng thu’ của Lưu Trọng Lư, hay ‘Đây mùa thu tới’ của Xuân Diệu… và trong đề tài về mùa thu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có những trải nghiệm về phút giây chuyển giao từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế và nhẹ nhàng. Bài thơ ‘Sang thu’, sáng tác năm 1977, thuộc tập ‘Từ chiến hào đến thành phố’, thể hiện phong cách nhỏ nhẹ, thiết tha, và sâu lắng của Hữu Thỉnh.

Bài thơ bắt đầu bằng cảm nhận về những tín hiệu dịu dàng của sự chuyển mùa thu trong một không gian gần gũi:

‘Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về’

Điều đầu tiên báo hiệu thời khắc chuyển giao từ cuối hạ sang thu là hình ảnh ‘hương ổi’ bay trong gió se. Hương ổi chín thơm, vừa quen thuộc vừa mới mẻ. Nếu thường thấy cảnh thu gắn liền với ao thu, bầu trời thu, hoa cúc vàng, lá vàng khô… thì Hữu Thỉnh lại chú ý đến hương ổi, tạo nên cái nhìn mới về mùa thu.

Thơ miêu tả mùi hương của ổi chín qua động từ ‘phả’, tạo ra hình ảnh mùi thơm nồng nàn, đậm đà, lan tỏa trong gió se. ‘Gió se’ là gió của mùa thu, hơi khổ, se lạnh. Chính gió này đưa mùi hương bay khắp không gian, làm đẹp cho mùa thu.

Mùa thu không chỉ có gió và hương ổi, mà còn có làn sương. Không gian thu lãng đãng, hơi sương làm cho khung cảnh trở nên lãng mạn. Sương được nhân hóa qua động từ ‘chùng chình’, như làn sương mỏng manh, nhẹ nhàng, chậm rãi như chưa muốn bước qua mùa thu. Ngõ ở đây là ngõ thực và ngõ của thời gian, chia ranh giới giữa hai mùa, hạ chưa muốn qua mà thu chưa muốn đến.

Cảm xúc trước những tín hiệu mùa thu được diễn đạt qua từ ‘bỗng’, thể hiện sự ngỡ ngàng, bất ngờ trước những phút giây chuyển mùa. Tác giả mở lòng với thiên nhiên qua giác quan: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). ‘Hình như thu đã về’ là phỏng đoán dựa trên cảm giác và tâm hồn, thể hiện sự tin tưởng thấp, hơi mơ hồ, phản ánh đúng với tình thái của mùa thu.

Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian, từ mặt đất lên bầu trời:

‘Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu’

Dòng sông được nhân hóa qua từ ‘dềnh dàng’, chậm chạp, thong thả. Nó không còn cuồn cuộn, gấp gáp như trong mùa hạ, mà lại lưng lại, từ từ, nhẹ nhàng. Sông như muốn níu kéo mùa hạ, chưa muốn chấp nhận mùa thu. Ngược lại, chim bắt đầu vội vã bay đi, cảm nhận được sự lạnh của tiết trời đầu thu. Nghệ thuật đối lập giữa dòng sông và chim tạo ra không gian mở, khoáng đạt.

Đám mây được nhân hóa qua hành động ‘vắt nửa mình’, tạo ra hình ảnh của mây nhẹ nhàng, duyên dáng, như ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu. Cảnh vật trở nên hư ảo, độc đáo, là sản phẩm của trí tưởng tượng sáng tạo và mới mẻ của tác giả. Tổng cảnh trình bày thành công khung cảnh trời đất khi bắt đầu sang thu, tinh tế và nhẹ nhàng.

Hữu Thỉnh, với tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu thiết tha với thiên nhiên, đã tạo nên bức tranh thu đẹp, lãng mạn. Từ cảm xúc bâng khuâng trước những phút giây giao mùa ở khổ thơ một và hai, nhà thơ chuyển sang suy ngẫm về cuộc sống:

‘Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.’

Nhà thơ tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện thay đổi về thời tiết. Nắng, mưa, sấm vẫn xuất hiện, nhưng đã đổi về mức độ. Nắng không còn gay gắt như giữa hạ, mưa nhỏ giọt hơn. ‘Sấm cũng bớt bất ngờ’, là biểu trưng cho những biến động của cuộc đời. Những câu thơ này thể hiện sự lưu luyến, níu kéo thời gian khi trời đất chuyển sang cuối hạ, đầu thu, nhẹ nhàng và khó nhận biết.

Đồng thời, nhà thơ sử dụng ẩn dụ, biểu trưng qua sấm và cây cổ thụ để chiêm nghiệm về cuộc đời. Sấm là biểu trưng cho những tác động của thế giới bên ngoài với những biến động trong cuộc sống. ‘Hàng cây đứng tuổi’ là biểu tượng của con người vững vàng trước những khó khăn, vất vả. Những hàng cây này là biểu trưng cho những con người trải qua bao gian nan, và từng làm chứng nhân cho những biến cố của thời gian. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, Hữu Thỉnh thể hiện sự chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc sống của con người.

‘Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi’

Bài thơ chứa đựng sự lưu luyến với thời gian, thể hiện sự tin tưởng thấp và mơ hồ, phản ánh tâm trạng nhẹ nhàng của mùa thu và cuộc sống. Hữu Thỉnh, với bút tài và trái tim nghệ sĩ, tạo ra bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn và đầy tính nhân văn.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)Hình minh họa (Nguồn: Internet)

8. Phân Tích Bài Thơ ‘Sang Thu’ của Hữu Thỉnh số 9

Mùa thu, chủ đề vĩnh cửu của thơ cổ kim, nơi ta bắt gặp không gian ngập tràn hương sắc thu trong bài thơ của Nguyễn Du: “Người lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”; cũng như mùa thu hiện đại trong tác phẩm của Xuân Diệu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Mỗi nhà thơ đều mang đến những phát hiện riêng về mùa thu. Tuy nhiên, ít ai như nhà thơ Hữu Thỉnh có những nhận thức tinh tế về sự chuyển động từ hạ sang thu như trong bài thơ “Sang thu”.

Sáng tác vào năm 1977, xuất hiện trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”, nhan đề của bài thơ đã làm bừng tỉnh người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và cái gì đó ẩn sau đó về sự chuyển động của đời người. Phần đầu của bài thơ chứa đựng những cảm nhận tinh tế, là bức tranh tinh tế của tác giả về những dấu hiệu mong manh khi thu về:

Đột ngột mùi hương ổi

Lưu luyến gió se se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Cảm nhận đầu tiên của tác giả xoay quanh mùi hương ổi, một hương thơm quen thuộc, gần gũi. Hương ổi kết hợp với từ “đột ngột” tạo ra cảm giác đột ngột, ngạc nhiên, điều này được thể hiện qua động từ “lưu luyến” của gió, cho thấy hương thơm thấm qua gió se lạnh của mùa thu. Không chỉ vậy, cách mô tả còn thể hiện sự chủ động của hương ổi, khiến hương thơm trở nên mạnh mẽ và đậm hơn.

Hương ổi cũng đưa người đọc về không gian quê hương với những con ngõ yên bình, cây lá xanh mướt, thể hiện không khí ấm áp của mùa thu chỉ có trong thơ Hữu Thỉnh. “Sương chùng chình” – kỹ thuật nhân hóa, hình dung sương như đang ngần ngại, chậm rãi để trải nghiệm sự ấm áp của mùa hè, như nó vẫn chưa muốn chấp nhận sự chuyển đến mùa thu. Với hình ảnh độc đáo, miêu tả sinh động, tác giả tài tình mô tả những dấu hiệu đầu tiên của mùa thu.

Trước sự xuất hiện của mùa thu, lòng người cũng trải qua những phân vân, lo lắng. Tình trạng “Hình như” thể hiện cảm xúc mơ hồ, không xác định, như là tác giả vẫn còn một ít phân vân, hơi ngạc nhiên: liệu mùa thu đã đến hay chưa? Khúc thơ đầu tiên là những cảm nhận tinh tế, mới lạ của tác giả khi mùa thu bắt đầu.

Ẩn sau những biến đổi của thiên nhiên khi mùa thu đến là tâm hồn tinh tế của nhà thơ, niềm vui, hạnh phúc khi mùa thu về. Các dấu hiệu thu về đã giải quyết những phân vân của tác giả trong khúc thơ trước:

Sông chảy êm đềnh

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Bắt đầu từ những dòng sông “chảy êm đềnh”, ta không còn thấy dòng nước hùng vĩ, cuồn cuộn như mùa hè, thay vào đó là dòng sông thu thanh thoát, yên bình, chảy một cách nhẹ nhàng như đang suy ngẫm về điều gì. Kỹ thuật nhân hóa khiến cho dòng sông dường như nghỉ ngơi sau mùa hạ gay gắt.

Ngược lại, những chú chim lại vội vã trở về phương Nam để tránh gió rét, đồng thời là biểu tượng cho sự bận rộn, xô bồ của cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh nổi bật nhất là đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Kỹ thuật nhân hóa giúp đám mây trở nên sống động, vừa có vẻ hư ảo vừa có vẻ thực tế, tái hiện được sự chuyển động của thời gian. Đồng thời, tác giả còn hình dung cánh cửa thời gian vô hình qua hình ảnh đám mây đó.

Khoảnh khắc chuyển mùa hiện lên tinh tế, sinh động qua những câu thơ giàu hình ảnh. Hữu Thỉnh là người tinh tế và nhạy bén khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong khoảnh khắc giao mùa. Phần thơ cuối cùng thể hiện rõ sự tinh tế của tác giả khi khám phá những biến đổi của thiên nhiên từ cuối hạ sang thu:

Nắng vẫn còn

Mưa dần vơi

Hữu Thỉnh sử dụng một cách linh hoạt với cặp từ “vẫn còn – dần vơi” , “nắng – mưa” để diễn đạt sự thay đổi ngược của các hiện tượng thiên nhiên biểu tượng cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã dần vơi, ít dần đi; mặt trời cũng không còn chói lọi, làm cho người ta không còn phải nhìn chói lọi nữa mà thay vào đó là ánh nắng thu dịu dàng như màu mật ong.

Tín hiệu của mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Sự đặc sắc, sự nhạy cảm của Hữu Thỉnh được thể hiện thông qua cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về cường độ: vẫn còn – dần vơi – ít đi cho thấy sự suy giảm của mùa hè, và mùa thu ngày càng trở nên đậm nét hơn. Hai câu thơ cuối cùng thể hiện sự chiêm nghiệm, tư duy sâu sắc về cuộc sống, con người của tác giả:

Sấm ít ngạc nhiên hơn

Bên hàng cây già

Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đầu tiên về ý nghĩa tả thực: tiếng sấm là một hiện tượng tự nhiên, thường là dấu hiệu của mưa rào trong mùa hè. Khi sang thu, tiếng sấm trở nên nhẹ nhàng hơn, không còn mạnh mẽ như mùa hè nữa, và cảnh cây già cũng trở nên yên bình hơn sau những mùa lá rơi.

Ngoài ra, tiếng sấm còn biểu trưng cho những biến động bất ngờ của cuộc sống, những thách thức mà mỗi người phải đối mặt. Tương ứng với ý nghĩa biểu tượng của “sấm”, “hàng cây già” là biểu tượng cho những con người đã trải qua nhiều sóng gió, gian nan trong cuộc sống. Do đó, ngay cả khi có những biến động, họ không dễ bị lay động, gục ngã; thay vào đó, họ trở nên bình tĩnh, ung dung hơn trước những thách thức, những biến cố của cuộc sống.

Với giác quan nhạy bén, Hữu Thỉnh đã kỳ diệu ghi lại khoảnh khắc chuyển mùa của đất trời từ hạ sang thu. Tạo nên bức tranh đẹp, đa sắc màu, đậm đà bản sắc Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm vần đồng điệu, ngôn ngữ giản dị mộc mạc mà vô cùng sâu sắc, làm nên thành công của tác phẩm.

Minh họa (Nguồn ảnh từ internet)Hình minh họa (Nguồn internet)

9. Phân tích bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh số 8

Mùa thu đã đến, mùa thu đã đến

Với chiếc áo mơ phai dệt lá vàng

Thi sĩ Xuân Diệu reo vui trong tiếng thơ, trước cảnh thu sang, là hòa nhạc hiện đại xen lẫn chất cổ điển. Hữu Thỉnh, qua bài thơ ‘Sang thu’, mở ra một góc nhìn khác về mùa thu, rất Việt Nam, rất thân quen.

‘Sang thu’ không dùng từ ngữ phức tạp, mà giản dị, tự nhiên, xen kỳ với tình cảm chân thành, tạo nên bức tranh thu khác lạ:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Bỗng – cảm giác bất ngờ, tự nhiên tràn về, mùi hương lạ, quen thuộc, hương ổi. Mùi hương ổi là biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với cơn gió se lạnh, hương thơm của ổi bay xa. Hương thơm không nhạt nhòa, mà đậm và sánh lạnh, lan tỏa trong không gian quen thuộc của quê hương.

Câu thơ không chỉ truyền đạt mùi hương mà còn mô phỏng sắc màu vàng ươm, thơm phức của những quả ổi chín. Hữu Thỉnh không chỉ ngửi thấy mùi ổi, mà ông còn nhận ra bước chuyển mình của mùa thu qua những dòng sương thu dịu dàng, chậm chạp trên bầu trời. Cuối cùng, ông nhận ra: “Hình như thu đã về”. Tiếng như là tiếng reo vui, sự ngỡ ngàng chào đón mùa thu.

Nếu ở đoạn thơ đầu tiên cảm giác về mùa thu vẫn mơ hồ, đến khổ thơ thứ hai, mùa thu trở nên rõ ràng hơn. Bằng từ ngữ giản dị, mộc mạc, Hữu Thỉnh mô tả từng dấu hiệu khi mùa thu đến:

Sông dường như dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nữa mình sang thu

Ngôn từ đơn giản, nhưng đầy ý nghĩa, khiến người đọc cảm nhận được sự chân thành, tâm huyết của tác giả. Con sông như được nhân hóa, chậm rãi dường như dềnh dàng khi thu về. Dòng nước chảy bình lặng, màu đỏ nặng phù sa, như chậm chạp, trôi suốt. Trong bầu trời, những chú chim bắt đầu “vội vã” bay về phương Nam để tránh rét.

Đặc biệt là hình ảnh đám mây với hai mùa: một nửa của mùa hạ và một nửa của mùa thu. Đám mây không chỉ là đám mây đơn thuần nữa mà còn như một tấm lụa mỏng, vắt ngang bầu trời, làm cho khái niệm về thời gian trở nên hữu hình. Đám mây mang trên mình sự lưu luyến, bịn rịn mùa hè sôi động, và cũng háo hức nghiêng về mùa thu để khám phá.

Mùa thu hiện hình rõ nét khi các hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa trở nên ít dần. Tại đây, mùa thu đã thật sự hiện hình một cách rõ ràng. Chỉ với những đường nét đơn giản, nhưng đủ để tạo nên bức tranh thu đậm đà tình người, tình yêu cuộc sống. Hình ảnh thu không u ám, héo úa, mà tươi tắn, tràn đầy sự sống và vô cùng giản dị.

Tác giả sử dụng các từ ngữ như chùng chình, dềnh dàng, vội vã và giọng thơ biến đổi linh hoạt, khiến người đọc như đang lắng nghe những lời tâm sự của tác giả. Những cảm xúc từ ngỡ ngàng đến vui mừng, từ trầm tư đến reo ca, tất cả được ông diễn đạt để đưa người đọc đến với một góc nhìn thật đẹp về mùa thu của làng quê Việt Nam. Hai câu thơ cuối có ý nghĩa ẩn dụ:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Bên hàng cây trưởng thành

Như những hàng cây, sau một mùa hè đầy giông bão, chúng trở nên chín chắn hơn. Cơn mưa rào đầu thu, với tiếng sấm nhỏ nhẹ, không làm cây cảm thấy sợ hãi. Như con người, sau bao khó khăn trong cuộc sống, họ cũng trở nên chín chắn và trưởng thành hơn.

Do đó, với những sóng gió không còn là điều bất ngờ, họ sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn thách thức. Đây chính là điểm nhấn của bài thơ, đằng sau bức tranh thu là những triết lý sâu sắc về cuộc sống và con người.

‘Sang thu’ không chỉ là bức tranh giản dị, mộc mạc mô tả sự chuyển động của thiên nhiên từ hạ sang thu. Mà nó còn là một tác phẩm thơ sâu sắc về con người và cuộc sống. Với ngôn ngữ giản dị, thể thơ năm chữ linh hoạt và nhịp điệu phong phú, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật, bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.

Minh họa (Nguồn ảnh từ internet)Hình minh họa (Nguồn internet)

10. Phân Tích Sâu Sắc Bài Thơ ‘Sang Thu’ của Hữu Thỉnh – Số 10

Thu là bức tranh của đất trời, là ‘bình minh mát’ của tâm hồn (Xuân Diệu). Viết về thu, đã có nhiều tác phẩm xuất sắc, nhưng chỉ khi đọc bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh, ta mới thấu hiểu được phần nào ‘cốt tủy chung tình bên trong’ của nó. Tất cả vẻ đẹp của mùa thu đều được gửi gắm qua bức tranh thơ ‘Sang thu’ – tác phẩm mà đến mãi sau này, ta vẫn không thể quên.

Hữu Thỉnh, nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến, đã có những trải nghiệm sâu sắc với thiên nhiên, đất nước và con người. Thơ ông bắt nhạy với những điều nhẹ nhàng tưởng như khó nắm bắt nhất. Khi cảm xúc tìm đến, trong tiết hanh của mùa thu, nhà thơ không kìm lòng mà viết bài thơ ‘Sang thu’ (1977).

Đọc bài thơ, ta như hòa mình vào bức tranh thiên nhiên tuyệt vời của làng quê Việt Nam:

‘Bỗng nhận ra hương ổiSương chùng chình qua ngõHình như thu đã về’

Câu thơ mở đầu tận dụng chi tiết ‘hương ổi’, mới mẻ và độc đáo trong thơ. Nếu người xưa thấy thu qua ‘ngô đồng nhất diệp lạc’, thi sĩ Xuân Diệu yêu thu qua hình ảnh ‘rặng liễu đìa hiu đứng chịu tang’, thì Hữu Thỉnh chọn ‘hương ổi’, làm sống lại kí ức về tuổi thơ, bờ sông, và mùi hương dân dã.

Bên cạnh đó, những hình ảnh như ‘sương’, ‘đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu’ gợi cho độc giả cảm xúc về sự chuyển động của thời gian và không gian, tạo nên một bức tranh thu đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bài thơ không chỉ diễn đạt vẻ đẹp tự nhiên mà còn chạm vào tâm hồn con người và tình yêu quê hương.

Ở khổ thơ cuối, Hữu Thỉnh nhắc nhở về sự chuyển giao giữa mùa hạ và thu: ‘Vẫn còn bao nhiêu nắngĐã vơi dần cơn mưaSấm cũng bớt bất ngờTrên hàng cây đứng tuổi’. Những hình ảnh nắng, mưa, sấm vẫn còn, nhưng đã trở nên điều hòa hơn, nhấn mạnh vào sự chuyển đổi của thời gian và trải nghiệm của con người.

Bài thơ ‘Sang thu’ của Hữu Thỉnh, với ba khổ thơ ngắn gọn, đã mang lại cho độc giả những cảm xúc đặc biệt. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn là hình ảnh tâm hồn và tình yêu quê hương, để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Hình minh họa (Nguồn: Internet)Minh họa bằng hình ảnh (Nguồn: Internet)

0 ( 0 bình chọn )

Tìm Hiểu Lịch Sử Quận Cầu Giấy: Hành Trình Phát Triển và Di Sản Văn Hóa

https://timhieulichsuquancaugiay.edu.vn
Khám phá lịch sử quận Cầu Giấy qua các thời kỳ từ xưa đến nay. Tìm hiểu những di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh và câu chuyện độc đáo giúp bạn hiểu sâu hơn về một phần lịch sử Hà Nội

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm