Blog

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích (phần 3)

1
Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích (phần 3)

Phân tích bài thơ “Kiều ở tháp Ngưng Bích” trích từ “Truyện Kiều” đề cập đến “Những câu thơ chứa đựng nỗi đau con người” (theo Tố Hữu). Nhiều sự việc kinh hoàng xảy ra: tai nạn, cha và em trai bị tố tội, tài sản bị bọn trộm “trong sạch” cướp đi… Số phận dành cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bá. Sau khi bị Mã Giám Sinh 'ngược đãi' và Tư Bá làm nhục, Kiều có ý định tự sát nhưng được cứu sống. Tú Bá dỗ Kiều:

‘Ai còn sống thì vẫn còn sống,

Hãy tìm một nơi xứng đáng là một gia đình…”.

Kiều bị Tú Ba đưa đến tháp Ngự Bích với lời hứa “xin hãy yên tâm” nhưng thực tế cô đã bị giam cầm. Ngưng Bích Lâu là điểm dừng chân của Thúy Kiều trên hành trình đầy nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm qua.

Sáu câu đầu của đoạn văn đồng thời tạo nên không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật. Có “núi xa” và “gần ánh trăng”: có “cồn cát vàng đó” và “dặm bụi hồng đó”. Giữa thiên nhiên hoang vắng bao la, không một bóng người, Kiều chỉ biết “Thế giới bao la còn xa lắm”. Một cảm giác cô đơn. buồn bã và bế tắc với số phận của mình, số phận của mình. Chỉ còn lại một mình đối mặt với ‘sáng sớm đèn khuya’, trái tim cô gái lang thang trong đau đớn, cay đắng và buồn chán không lối thoát:

'Chán mây sáng và ánh đèn đêm khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia đôi một trái tim'.

Bốn chữ “như chia cắt một trái tim” diễn tả một tâm trạng, một nỗi đau tan vỡ, đau đớn. Vì vậy, dù sống giữa một bức tranh đẹp đẽ, yên bình, có núi xa, trăng gần – cô vẫn cảm thấy cô đơn, buồn chán, bởi 'Người buồn thì không bao giờ vui'. Kiều không tránh khỏi sự cô đơn, buồn chán trước một hoàn cảnh bi thảm:

'Bên bờ sông nước,

Thất lạc thì đau lòng nên chỉ nói vài câu thôi”

Tám câu tiếp theo nói về nỗi nhớ người yêu của Thúy Kiều và nỗi đau của cô đối với cha mẹ khi sống một mình ở tòa nhà Ngưng Bích. Với Kim Trọng, Kiều nhớ lại. Với bố mẹ, cô cảm thấy có lỗi với nhau. Kiều mỗi người đều có nỗi đau riêng.

Trên đường về Lâm Trí cùng Mã Giám Sinh. Kiều nhớ đến nỗi cô đơn, đau khổ của Kim Trọng: 'Ngày thu ai cũng cô đơn'. Đối với cha mẹ Kiều, điều đó thật đau đớn: “Nghe tiếng chim hót như nhắc nhở trái tim của một vị thần”. Lần này Kiều nhớ Kim, nhớ lời thề dưới ánh trăng tình “dưới bát đồng trăng”, yêu người chờ đợi đau khổ, “chờ ngày mai” và “bất lực”, cô đơn, buồn bã. Khi nào thì hết, khi nào thì cảm giác khao khát đó sẽ “mất dần”? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian, thời gian xa xôi như: “dưới trăng bát đồng” tin vào sương”, “chờ ngày mai”, “ở góc trời”, “rửa son…” đã được trình diễn. Miêu tả và phản ánh sâu sắc cảm xúc nhớ nhung người yêu thuở ban đầu, giờ đây vì sự chia ly đau đớn vì hoàn cảnh:

'Bức tường người dưới chiếc bát đồng

Tin tức hy vọng, nhưng chờ đợi vào ngày mai.

Ở một góc trời cô đơn,

Son môi sẽ không bao giờ phai màu sau khi được rửa sạch.”

Các động từ – vị ngữ: “nghĩ”, “nhìn”, “đợi”, “bất lực”, “rửa”, “phai” đã kết hợp thành một hệ thống ngôn ngữ duy nhất thể hiện nội tâm của nhân vật. yêu. Kiều nhớ người yêu vô cùng và đau buồn trước mối tình tan vỡ đã tan vỡ với những lời thề nặng nề!

Nhớ Kim, Kiều cảm thấy có lỗi với bố mẹ. Những từ chỉ thời gian xa nhau: “ngày mai”, “bao nhiêu ngày nắng mưa”, biểu tượng, tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc: “Lai sân”, “gốc tử thần” và thành ngữ “quạt ấm lạnh”, đặc biệt là hình ảnh một Mẹ già tựa cửa ngày mai ngóng trông ngóng đứa con lạc nơi quê hương, khắc họa vô cùng nỗi nhớ cha mẹ, nỗi buồn của đứa con gái đầu lòng không được, không được chăm sóc, quan tâm. cha mẹ, khi cha mẹ già yếu, khi cội nguồn vừa phải ôm ấp”.

Nguyễn Du đã sử dụng một ngôn ngữ duy nhất kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những dòng thơ biểu cảm diễn tả tâm trạng bi thương, hoàn cảnh bi thảm của Thụy Kiều. Trong lúc chia ly, “trâm vỡ gương vỡ”, cô vẫn dành cho “người tình chung” bao nhiêu yêu thương và nhớ “vô số mối tình”. Vốn là người con hiếu thảo, giàu đức hy sinh, cha mẹ già không được chăm sóc sớm, Kiều càng thương nhớ và càng buồn hơn. Giọng thơ đầy nước mắt, nỗi đau của Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người theo năm tháng:

'Nỗi tiếc thương tựa vào cánh cửa ngày mai,

Fan lạnh lùng bây giờ là ai?

San Lai xa nắng mưa,

Đôi khi cái cây chỉ đủ cho một người ôm.”

Trong tám câu cuối của đoạn văn, điệp khúc “trông buồn bã” được lặp lại bốn lần, đứng ở đầu câu thứ 6 của mỗi cặp quẻ. Mỗi cặp sáu chiếc bát tượng trưng cho một tâm trạng “trông buồn bã”. Môi trường và tâm trạng bên ngoài, khung cảnh thiên nhiên và sự thay đổi tâm trạng của nhân vật được miêu tả thông qua hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ quy ước, mở ra cánh đồng liên tưởng bi kịch:

'Buồn nhìn cánh cửa vỡ chiều hôm ấy

Thuyền ai đang căng buồm phía xa?

Biển bao la cuối ngày và chiều tối càng làm tăng thêm nỗi buồn, sự cô đơn trong cuộc đời của một kẻ lang thang. “Thuyền của ai” xuất hiện rồi biến mất, “cánh buồm nhấp nháy phương xa” đầy ám ảnh. 'Thật buồn khi nhìn' con thuyền 'không quen', cánh buồm thấp thoáng phía xa”, Kiều càng nghĩ nhiều hơn về thân phận bất lực của mình nơi xứ người.

Sau đó, cô “buồn” nhìn về phía “dòng sông mới chảy”, nhìn những cánh hoa trôi và tự hỏi “đi về đâu”, về một phương hướng không xác định. Những cánh hoa bồng bềnh ấy tượng trưng cho số phận trôi nổi trên dòng đời, không biết đi về đâu. Kiều nhìn hoa trôi trên sông mà xót xa cho số phận mình:

'Buồn nhìn dòng sông mới chảy.

Những bông hoa bồng bềnh biến mất không biết đi về đâu.

Sau hai câu hỏi êm đềm về “thuyền nào”, về hoa trôi, tôi chẳng biết đi về đâu. Kiều “buồn nhìn” tứ phương “dưới trời mây dưới đất”. Trên mặt đất, cô chỉ nhìn thấy trên nền xanh mờ rộng mênh mông những màu vàng nhạt, chua chát của cỏ cây. Màu nhạt ấy tượng trưng cho nỗi đau nhạt nhòa của người con gái lạc lối trong cuộc đời khắc nghiệt:

'Buồn nhìn cỏ cây tàn lụi,

Dưới bầu trời và trên trái đất, một màu xanh xanh'.

“Nơi cỏ khô” hiện lên giữa màu “xanh” nhợt nhạt của “dưới trời và dưới đất” chính là tâm trạng lo lắng của Kiều khi nghĩ về tương lai mờ mịt, khô héo của mình, màu của cỏ” Cô mới chỉ nhìn thấy nó vài lần. mấy ngày trước trên mộ Đàm Tiến:

'Không may ôm đất ven đường,

Lộ ra bãi cỏ nửa vàng nửa xanh.

Nhìn xa rồi nhìn gần, đồng thời “nhìn buồn” và lắng nghe. Nghe tiếng gió, tiếng gió hú, tiếng 'gió vù vù' trên mặt đất. Hãy nghe tiếng 'gầm' của sóng, không phải tiếng hát mà là 'sóng thét'. Gió và sóng vây quanh 'quanh chỗ ngồi'. Tâm trạng cô đơn là trải qua những giây phút kinh hoàng, sợ hãi, lo lắng. Có lẽ âm thanh dữ dội của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang vây quanh, sắp ập xuống số phận của cô bé “nhỏ” tội nghiệp? Kiều “trông buồn” nhưng lại lo lắng và sợ hãi:

'Buồn nhìn gió thổi bay đồi cát

Sóng gầm rú quanh ghế.

Bức tranh “cảnh sắc thiên nhiên”, gần nhất là đình Ngự Bích, xa là con thuyền và cánh buồm xa xa trên biển chiều, nước chảy và hoa bồng bềnh, cỏ héo buồn giữa màu xanh mù sương của đồng ruộng. biển. Mặt đất, tiếng gió và tiếng sóng gầm trên mặt biển đều mang ý nghĩa biểu tượng và mang đầy giá trị nghệ thuật. Màu sắc đó, âm thanh đó của thiên nhiên vừa rộng lớn, mơ hồ vừa mãnh liệt, như muốn bao bọc cô gái lạc lối, đau đớn trong nỗi buồn và sự cô đơn khủng khiếp.

Những thử thách nguy hiểm, nhiều cạm bẫy, có “ma dẫn đường, quỷ dẫn đường” là bao la đối với Kiều. Bài thơ “Kiều trong toà nhà Ngựng Bích” dường như đẫm nước mắt. Giọt nước mắt của một cô gái lạc lối, đau khổ vì cô đơn, buồn cay đắng vì mối tình đầu tan vỡ, buồn vì nhớ cha mẹ, lo lắng cho số phận, tương lai của chính mình. Những giọt nước mắt của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la, đồng cảm, xót xa cho cô gái tài năng, hiền lành nhưng kém may mắn.

0 ( 0 bình chọn )

Tìm Hiểu Lịch Sử Quận Cầu Giấy: Hành Trình Phát Triển và Di Sản Văn Hóa

https://timhieulichsuquancaugiay.edu.vn
Khám phá lịch sử quận Cầu Giấy qua các thời kỳ từ xưa đến nay. Tìm hiểu những di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh và câu chuyện độc đáo giúp bạn hiểu sâu hơn về một phần lịch sử Hà Nội

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm