1. Tài liệu tham khảo số 1
- Top 10 Địa điểm thưởng thức Cua Hoàng Đế ngon nhất ở Đà Nẵng
- Nhâm Ngọ 2002 mệnh là gì? Hợp với màu nào, tuổi nào, và hướng nào là lựa chọn tốt?
- Bí quyết nạp thẻ Garena một cách an toàn và nhanh chóng với chiết khấu hấp dẫn
- Top 15 Quán ăn ngon trên đường Tôn Thất Tùng, Quận Đống Đa, Hà Nội
- Game io là gì? Diep.io và các tựa game io xuất sắc nhất
Bài viết của Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học, từng tuyên bố rằng ‘Mỗi trang văn đều phản ánh thời đại mà nó được sáng tạo’. Điều này đặc biệt đúng đối với những kiệt tác văn học, nó không chỉ mang tính chất văn chương mà còn là nguồn sáng tạo lịch sử. ‘Đại cáo Bình Ngô’ không chỉ là kiệt tác của Nguyễn Trãi, mà còn là một bản tuyên ngôn độc lập quan trọng.
Ý nghĩa của một bản tuyên ngôn độc lập là văn bản được sử dụng để khẳng định nền độc lập, chủ quyền của quốc gia, đặc biệt là sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống lại xâm lược của quốc gia ngoại. Đại cáo Bình Ngô đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này. Nó ra đời sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào mùa xuân năm 1428, do sự lãnh đạo của Lê Lợi. Cuộc chiến kéo dài hai mươi năm, sau cảnh ách đô hộ của quân Minh, nó đánh dấu chiến thắng và khôi phục lại độc lập cho dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới. Đại cáo Bình Ngô không chỉ là một bản tuyên ngôn, mà còn là một khúc khải hoàn ca, ký ức về một thời kỳ mới của dân tộc, thời kỳ độc lập và tự do.
Bạn đang xem: Danh sách Top 6 Bài văn chứng minh Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập tuyệt vời trong môn Ngữ Văn lớp 10
Trong nội dung của bài cáo, Nguyễn Trãi không chỉ làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa từ đầu, mà còn khẳng định chiến thắng của Lam Sơn một cách hùng biện. Ông sử dụng những câu thơ mở đầu để ca ngợi tư tưởng nhân nghĩa:
‘Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’
Theo tư tưởng Nho gia, nhân nghĩa chính là yên dân, là làm sao cho nhân dân có được cuộc sống an lành, yên bình và hạnh phúc. Để đạt được điều này, trong bối cảnh xâm lược của quân Minh, cần phải loại bỏ bạo lực. Nguyễn Trãi mô tả rõ ràng rằng việc độc lập của dân tộc phụ thuộc lớn vào sự đoàn kết của nhân dân. Họ là những người đã cống hiến, đấu tranh và giữ vững độc lập cho đất nước.
Nguyễn Trãi không chỉ trình bày về lịch sử lâu dài của dân tộc, mà còn so sánh nó với các triều đại phương Bắc. Ông liệt kê các triều đại như ‘Triệu, Đinh, Lý, Trần’ của Việt Nam đồng thời so sánh chúng với ‘Hán, Đường, Tống, Nguyên’ của Trung Quốc. Nguyễn Trãi khẳng định rằng dân tộc Việt Nam đã đứng ngang hàng với các nước khác, không chấp nhận sự thống trị. Đại cáo Bình Ngô không chỉ phơi bày tội ác của quân Minh mà còn đưa ra một bản án chất lượng, đanh thép với kẻ thù. Bài cáo tuyên bố về chiến thắng, niềm tự hào, và cả tình yêu nước.
Khép lại bài ‘tuyên ngôn’, Đại cáo Bình Ngô tuyên bố về hòa bình:
‘Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu’
Đại cáo Bình Ngô không chỉ là một bản tuyên ngôn lịch sử, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật. Nó được viết theo thể văn biền ngẫu, chặt chẽ và thuyết phục. Bài cáo không chỉ là sự kể chuyện lịch sử mà còn là một tác phẩm văn học toàn diện, kết hợp giữa văn chương và lịch sử, làm nổi bật tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.
Với những thành công này, Đại cáo Bình Ngô vẫn giữ vững vị thế của mình trong văn hóa và lịch sử Việt Nam. Mỗi lần bài cáo được nhắc đến, người Việt lại cảm nhận được giọng nói của Tổ quốc trong trái tim mình.
Hình minh họa số 1Hình minh họa số 2
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm vĩ đại, là biểu tượng của lòng yêu nước và ý chí quật cường trong những thời kỳ khó khăn. Nó không chỉ là một di sản lịch sử mà còn là bản hùng ca vang bóng qua hàng thế hệ. Bình Ngô đại cáo, một áng văn hùng vĩ, ánh sáng soi bước chân dân tộc qua hàng nghìn năm.
Đây không chỉ là một bài diễn thuyết chính trị, mà còn là tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, nơi tâm huyết và trí tuệ của Nguyễn Trãi hiện hữu. Sức mạnh từ những từ ngữ của ông đã khiến cho Bình Ngô đại cáo trở thành biểu tượng vững chắc của lòng tự tôn, lòng yêu nước và khát khao hòa bình.
Cuộc chiến tranh chống giặc Minh không chỉ là một cuộc đấu tranh vì sự tự do, độc lập của dân tộc, mà còn là một hành trình đầy gian khổ và hi sinh. Từ những hàng ngàn năm trước, những đợt phản công của quân ta đều là những bước tiến vững chắc trên con đường bảo vệ đất nước, đánh đuổi bè lũ xâm lược.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là tấm gương sáng cho anh hùng Lê Lợi và những chiến sĩ xuất sắc, mà còn là bức tranh sống động về lòng yêu nước, lòng tự tôn và lòng nhân nghĩa của nhân dân. Trên hành trình đánh giặc, bản lĩnh của quân và dân đã hòa mình vào những giá trị cao quý, thể hiện niềm kiêu hãnh, sức mạnh tinh thần và lòng yêu nước vô biên.
Chiến thắng không chỉ đến từ sức mạnh quân đội, mà còn là kết quả của lòng đoàn kết, hi sinh và trí tuệ chiến lược. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn của chiến thắng, là bài ca huyền thoại về sự hy sinh và chiến thắng vang dội của nhân dân Đại Việt.
Nhìn về quá khứ hào hùng, chúng ta không thể không tự hào về Bình Ngô đại cáo, biểu tượng của chiến thắng, lòng dũng cảm và trí tuệ chiến lược. Nó không chỉ là một bài diễn thuyết lịch sử, mà còn là nguồn động viên mãnh liệt cho thế hệ ngày nay, khẳng định vị thế kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
Bình Ngô đại cáo, một trang sử vinh quang, một tình yêu bất diệt, và là nguồn động viên mãnh liệt cho tất cả chúng ta. Hãy giữ gìn và tự hào về bản lịch sử hào hùng này, nó là di sản vô giá của dân tộc ta.
Hình minh họaHình minh họa
3. Tài liệu tham khảo thứ hai
Trong thế kỉ XI, khi bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, lũ giặc Tống hồn xiêu phách lạc. Đến thế kỉ XX, sau khi nghe bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, thực dân Pháp không còn cớ ‘khai hóa, mẫu quốc’ An Nam. Nhưng ở thế kỉ XV, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi lại là áng ‘thiên cổ hùng văn’ mà chúng ta không nên quên. Bài cáo ra đời sau chiến thắng giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên ngôn thường bao gồm ba điều: khẳng định độc lập, tuyên bố thắng lợi, tuyên bố hòa bình. Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn này. Sau chiến thắng giặc Minh, vào mùa xuân năm 1428, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo về nền độc lập dân tộc, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố hòa bình sau hai mươi năm ách đô hộ và chiến tranh. Khúc tráng ca này trở thành một khúc khải hoàn về kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.
Bằng lối văn nhịp nhàng, giọng điệu hào hùng, Bình Ngô đại cáo mở màn với lời khẳng định ‘Đại Việt là đất nước của chúng ta’:
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Xem thêm : Hướng dẫn thực hiện dịch biển số xe trực tuyến một cách chuẩn xác
Với thủ pháp liệt kê nền văn hiến, núi sông, phong tục, lịch sử và hào kiệt, Nguyễn Trãi xác lập về nền độc lập của nước nhà. Trong khi Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định bằng một phương diện là lãnh thổ, Đại cáo Bình Ngô đưa ra nhiều phương diện cụ thể hơn. Chân lý độc lập nâng tầm vị thế của dân tộc ngang hàng với Đại Hán, không chỉ dựa vào mạnh yếu, lớn nhỏ, mà còn so sánh chính xác với sự tồn tại của đế cường phương bắc. Bản đại cáo mở màn với lời khẳng định chắc chắn, ‘không thể chối cãi’, được lịch sử xác nhận và ghi nhớ.
Bình Ngô đại cáo ghi nhận chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập không phải do thiên định mà do nhân định, là nhân dân bao đời đã xây dựng. Bao xương máu, đồng cam cộng khổ, nước mắt của nhân dân cả nghìn năm, tạo nên điều ‘bất khả xâm phạm’. Suốt sáu trăm năm đất nước độc lập, Bình Ngô đại cáo lần đầu tiên khẳng định chủ quyền dân tộc một cách dõng dạc, tự hào. Đây là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi lên án những kẻ xâm phạm chủ quyền nước ta.
Bản ‘tuyên ngôn’ Bình Ngô đại cáo kết án tội ác của giặc Minh, từ âm mưu thâm độc đến hành động bạo tàn. Nguyễn Trãi viết trong căm hờn, uất nghẹn:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được.
Nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về chiến công vinh quang của dân tộc. Chính lý độc lập mới mang lại khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi đã chờ đợi bao nhiêu năm để viết lên những khoảnh khắc lịch sử không bao giờ quên. Lần này ông khẳng định cuộc chiến, sự đồng khởi xuất phát từ chính nghĩa. Sức mạnh bạo lực của chính nghĩa đập tan bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng giặc Minh là điều kiện để kết liễu những kẻ xâm phạm chủ quyền, tham công nên thất bại.
Sau những gian khổ, vinh quang đến:
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Giọng thơ thư thái, nhưng vẫn hùng dũng. Vững bền, đổi mới, vững chắc… là những lời tuyên bố trong hân hoan, sung sướng. Quy luật cuộc đời bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng chắc chắn trải qua quy luật ấy là nỗ lực của cả dân tộc để giữ vững nền độc lập. Hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt ngày càng lớn mạnh như sức mạnh vũ trụ, tạo nên cảnh thái bình. Chân lý độc lập vẫn vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi nhớ đến sự giúp đỡ của trời đất tổ tông khôn thiêng, nhấn mạnh đạo lý uống nước nhớ nguồn. Tác phẩm không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền được thiết lập bởi tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ.
Trước tác phẩm của Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện lịch sử, nó còn được coi là áng ‘thiên cổ hùng văn’, áng văn chính luận bất hủ. Ở giá trị nào đi nữa, không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc với tầm vóc quốc tế. Đây thực sự là một bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và khát vọng hòa bình của toàn nhân loại.
Hình minh họaHình minh họa
4. Tài liệu tham khảo số 5
Đại bản tuyên ngôn Bình Ngô không chỉ là một tác phẩm văn nghệ kiên quyết, tố cáo tội ác của kẻ thù, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc ta, mà còn là một lời tuyên bố độc lập mạnh mẽ. Bình Ngô đại bản tuyên ngôn được coi là tuyên bố độc lập thứ hai trong lịch sử dân tộc, ngay sau Nam quốc sơn hà và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Tác phẩm này không chỉ là một sáng tác văn xuôi có sức cuốn hút, mà còn là một tác phẩm đầy tâm huyết với đất nước, toát lên tinh thần yêu nước sâu sắc, nồng nàn.
Sau những câu thơ mở đầu nhấn mạnh giá trị nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã trình bày các lập luận đầy sức mạnh để khẳng định chủ quyền của dân tộc. Điều này đặc biệt được thể hiện rõ trong đoạn thơ sau:
Như nước Đại Việt là từ thời xa xưa
Luôn tự hào về truyền thống văn hiến lâu dài
Núi sông và bờ cõi tự hào chia sẻ
Văn hóa phong tục Bắc Nam đậm đà văn hiến
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập
Cùng với Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi nơi tự xưng đế
Mặc dù mạnh yếu có thay đổi theo thời gian,
Nhưng hào kiệt luôn tồn tại qua từng thời đại
Chỉ với từ ‘từ thời xa xưa,’ Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng sự độc lập của dân tộc đã tồn tại từ lâu dài, hàng nghìn năm qua và không thể phủ nhận được. Câu thơ thứ hai ông mô tả về truyền thống văn hiến lâu dài của dân tộc. ‘Văn hiến’ ở đây đề cập đến tri thức, văn hóa của một dân tộc. Câu thơ nguyên văn tiếng Hán ‘Thực vi văn hiến chi bang’ (Đúng là một nước có truyền thống văn hiến). Chữ ‘thực’ ở đây có nghĩa là sự thật, điều rõ ràng và không cần phải tự nhận. Điều này đã khẳng định về văn hiến, tri thức của dân tộc ta. Bằng cách liệt kê, Nguyễn Trãi chứng minh sự tồn tại đồng thời của các triều đại hai nước. Trong hai câu thơ, từ ‘đế’ được sử dụng thay vì từ ‘vương’ nhằm thể hiện sự bình đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Nguyễn Trãi hoàn thiện quan niệm về quốc gia và dân tộc, là bước tiến lớn so với tuyên ngôn độc lập trước đó của Lí Thường Kiệt. Ông chỉ đơn giản chỉ ra hai yếu tố, chủ quyền và lãnh thổ.
Ngoài ra, đoạn thơ cuối cũng là lời tuyên bố chiến thắng của dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, một triều đại mới: ‘Xã tắc từ nơi này sẽ vững bền/ Đất nước từ đây sẽ có sự đổi mới/ Kiến thức và lòng nhân bản rồi sẽ thăng hoa/ Ánh sáng của tri thức sẽ chiếu sáng rất sáng/ Việc duy trì trạng thái bình yên sẽ là vững chắc/ Mọi vết nhơ và nhục nhã sẽ được làm sạch mịn.’ Tác phẩm này kết thúc bằng những lời kết luận từ tự nhiên, thể hiện niềm tin vào tương lai của đất nước.
Để tăng cường tính đanh thép của bản tuyên ngôn, Nguyễn Trãi còn đóng góp ở mặt nghệ thuật. Ông sử dụng câu văn biền ngẫu tài tình, có tính chất sóng đôi và sử dụng biện pháp so sánh để thể hiện sự bình đẳng của chúng ta với Trung Quốc ở mọi khía cạnh, nhằm khẳng định vị thế của dân tộc. Ông sử dụng các từ như quý, lâu dài, chia sẻ, khác,… để khẳng định độc lập của Đại Việt, là những cơ sở đã tồn tại từ lâu, không thể phủ nhận. Ngoài ra, ông còn sử dụng biện pháp liệt kê: các yếu tố hình thành quốc gia và dân tộc (truyền thống văn hiến, lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử lâu dài,…) để tạo ra cơ sở vững chắc cho sự độc lập của dân tộc.
Với lối viết hùng hồn, dõng dạc, đanh thép và lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Điều này đánh dấu một bước tiến lớn so với bản tuyên ngôn trước đó. Đồng thời, đoạn thơ cũng là cơ sở để tác giả chuẩn bị triển khai các phần tiếp theo.
Minh hoạ số 1Minh hoạ số 2
5. Tham khảo số 4: Bài ca vinh quang
Nếu bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là tiếng hát trên dòng sông Như Nguyệt, thể hiện bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là khúc hát vang vọng, tôn vinh chiến thắng, khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta. Với lối thơ hùng tráng, dứt khoát, như câu nói mạnh mẽ “Nước Nam là của nhân dân Việt Nam”.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vươn lên như một bản nhạc truyền kỳ, ca ngợi chiến công xuất sắc, khẳng định độc lập và chủ quyền của dân tộc. Bằng giọng thơ hùng hồn, ông mạnh mẽ thể hiện:
Như nước Đại Việt ta từ thời xa xưa
Luôn tự hào với truyền thống văn hiến lâu dài
Lý do Nguyễn Trãi sử dụng từ “như nước Đại Việt ta từ thời xa xưa” là vì Lý Thường Kiệt trước đó đã nói:
Sông núi nước Nam vua nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Chỗ khác, Nguyễn Trãi đặt nặng việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng con đường nhân định. Điều này là sự khác biệt giữa hai tư duy ở hai giai đoạn khác nhau. Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh, để có độc lập, nhân dân ta đã phải chiến đấu với rất nhiều gian khổ. Đó là sự hi sinh của nhiều thế hệ, không phải là do trời phú cho, cũng không phải là tự nhiên mà có:
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần là những thế hệ xây dựng nền độc lập
Cũng như Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi nơi tự xưng làm vua
Vậy nên, chủ quyền và độc lập của Việt Nam là nhờ vào sự hy sinh, cống hiến của nhân dân, thông qua sự đoàn kết của tất cả mọi người, từ những truyền thống, tập quán cho đến lịch sử dài lâu,… Đây chính là sự tuyên bố hùng hồn của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo, chính vì những lý do đó, Nguyễn Trãi đã hô lên:
Xã tắc từ nơi này vững bền
Giang sơn từ nơi này đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Mặc dù lời thơ nhưng vẫn có trọng lượng, tạo ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Dân tộc ta đã phải đối mặt với nhiều thách thức, chiến tranh và xâm lược của các đế quốc, thực dân phong kiến. Những nỗ lực đó đã tạo ra kết quả là “vững bền” và “đổi mới” giang sơn. Nguyễn Trãi đã sử dụng hình ảnh to lớn của vũ trụ như “càn khôn” và “nhật nguyệt” để diễn đạt sự bền vững, thịnh vượng của một quốc gia.
Nguyễn Trãi không tự cao mình vì những thành tựu đó, ông còn nhấn mạnh rằng đất nước thịnh vượng, độc lập là nhờ sự biết ơn tổ tiên:
Âu cũng nhờ vào sự độ cao, đạo đức thiêng liêng của tổ tông giúp đỡ mới có được như vậy
Chúng ta thấy một tinh thần khiêm tốn, biết ơn rất tinh tế. Độc lập, chủ quyền của Việt Nam là nhờ vào sự giúp đỡ của tổ tiên ở trên trời, sự linh thiêng, tạo ra sự ban phước. Điều này là một truyền thống sâu sắc của dân tộc ta qua hàng nghìn năm.
Với những điều trên, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi thực sự là bản tuyên ngôn độc lập, là sự khẳng định chủ quyền và thịnh vượng của một quốc gia.
Minh hoạ số 3Minh hoạ số 1
6. Tài liệu tham khảo số 6
Qua bao biến cố lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn ghi chép cho mình những bản tuyên ngôn độc lập quan trọng. “Đại cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi, được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai, lọt thứ sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt và trước “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trãi, nhân văn võ công, từng phục vụ dưới thời nhà Hồ và tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của vua Lê Lợi. Ông được biết đến như một nhà văn hóa xuất sắc, góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hóa và tư tưởng Việt Nam. Ông là danh nhân văn hóa được công nhận của Việt Nam và thế giới. Sau chiến thắng trước quân Minh năm 1428, Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao việc viết “Đại cáo Bình Ngô”.
Vậy tại sao “Đại cáo Bình Ngô” được xem là một tuyên ngôn độc lập? Tiêu chuẩn của một tuyên ngôn độc lập là gì? Đầu tiên, tác phẩm phải được sáng tác trong hoặc sau một cuộc chiến. “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, tuyên ngôn độc lập đầu tiên, viết trong chiến thời chống lại Tống. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, viết sau chiến thắng trước Pháp năm 1945. Tương tự, “Đại cáo Bình Ngô” ra đời sau chiến thắng trước quân Minh. Một tuyên ngôn độc lập cần bao gồm ba phần: khẳng định dân tộc, tuyên bố chiến thắng, tuyên bố hòa bình. Không cần đọc kỹ, ai cũng có thể nhận ra rằng bài cáo này đáp ứng đầy đủ ba điều kiện trên. Tính độc lập được thể hiện rõ nhất qua đoạn đầu của “Đại cáo Bình Ngô”.
Ngay từ những câu mở đầu, “Đại cáo Bình Ngô” đã tôn vinh sự tự nhiên của văn hiến Việt Nam. Những cụm từ như “từ trước”, “vốn ” đặt nhấn mạnh vào tính lâu dài của dân tộc. Sau đó là “đã chia”, “phong tục… cũng khác”, làm rõ biên giới đặc biệt của hai nước, không thể nhầm lẫn. Tất cả là để khẳng định lại sự tự nhiên, lâu dài của độc lập Việt Nam. Nguyễn Trãi còn liệt kê các triều đại của Việt Nam “Triệu, Đinh, Lí, Trần” song song với các triều đại phương bắc “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách lựa chọn từ “xưng đế một phương” nhấn mạnh sự đồng đẳng, không thua kém dù chúng ta là một quốc gia nhỏ. Khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các quốc gia khác chỉ được xưng vương. Nhưng từ đời Ngô, Ngô Quyền đã xưng hoàng đế, làm nổi bật sự đồng đẳng giữa hai nước. Việc sắp xếp và câu đối thêm vào ấn tượng của sự so sánh giữa cả hai quốc gia. Trong bài cáo, Nguyễn Trãi cũng thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc: “hào kiệt đời nào cũng có”. Nghệ thuật liệt kê càng làm rõ hơn về sự thất bại của đối thủ, : “Lưu Cung… thất bại”, “Triệu Tiết … tiêu vong”, “bắt sống Toa Đô”, “giết tươi Ô Mã”, làm nổi bật chủ quyền dân tộc. Ở cuối đoạn, “chứng cớ còn ghi” như lời khẳng định thêm rằng, chứng cớ đã được ghi, không có gì được che giấu.
“Đại cáo Bình Ngô” có thể coi là một bản nâng cấp của “Nam quốc sơn hà”, hoàn thiện hơn về mặt tuyên ngôn độc lập của nước ta. Trong khi Lý Thường Kiệt chỉ đưa ra bốn câu ngắn gọn để nhấn mạnh tính độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã sáng tác một bài cáo chi tiết để lấp đầy tất cả những khoảng trống của tuyên ngôn đầu tiên.
Minh hoạ số 1Minh hoạ số 2
Nguồn: https://timhieulichsuquancaugiay.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)